Nguyễn Thị Các Thủy: Dân lúa, ham chơi với dân lúa, làm bạn với cây trái nhiệt đới.
Cứ từ từ rồi cháo cũng nhừ :-)
Saturday, May 26, 2012
Friday, May 25, 2012
Điêu đứng vì giao dịch miệng
Tại Đồng bằng
sông Cửu Long, giá ớt đang rớt thê thảm từ 50.000 đồng/kg xuống còn
8.000 - 10.000 đồng/kg; dừa khô từ 140.000 - 150.000 đồng/chục còn
35.000 - 40.000 đồng/chục..
Khoai mì ở Tây
Nguyên cũng rớt còn 2.000 đồng/kg... đẩy nông dân vào cảnh lỗ nặng.
Nguyên nhân là do nhiều hộ mở rộng diện tích quá lớn, trong khi đầu ra
phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, khi thương lái Trung Quốc giảm thu
mua giá rớt ngay lập tức.
Mình tự... hại nhau
Chiều 16-5, trở lại huyện Bình Tân (Vĩnh Long), nơi có vùng chuyên canh khoai lang lớn nhất ĐBSCL, không khí bao trùm là nỗi âu lo của những người nông dân tay lấm, chân bùn. Ông Đào Văn Duy, một thương lái chuyên thu mua và cung ứng khoai lang tím Nhật cho thị trường Trung Quốc, kể: Cách nay hơn 3 năm, anh Duy tình cờ quen với một vài thương lái Trung Quốc sang Bình Tân mua khoai lang và trở thành cò cho họ. Những năm đó ở Bình Tân ít người làm cò, trong khi thương lái Trung Quốc mạnh tay chi hoa hồng, mua giá cao, nhận hàng dễ dãi... làm cò lời đậm. Chính từ đồng lời béo bở nên không bao lâu đã có trên 50 người đứng ra làm lái khoai.
Mình tự... hại nhau
Chiều 16-5, trở lại huyện Bình Tân (Vĩnh Long), nơi có vùng chuyên canh khoai lang lớn nhất ĐBSCL, không khí bao trùm là nỗi âu lo của những người nông dân tay lấm, chân bùn. Ông Đào Văn Duy, một thương lái chuyên thu mua và cung ứng khoai lang tím Nhật cho thị trường Trung Quốc, kể: Cách nay hơn 3 năm, anh Duy tình cờ quen với một vài thương lái Trung Quốc sang Bình Tân mua khoai lang và trở thành cò cho họ. Những năm đó ở Bình Tân ít người làm cò, trong khi thương lái Trung Quốc mạnh tay chi hoa hồng, mua giá cao, nhận hàng dễ dãi... làm cò lời đậm. Chính từ đồng lời béo bở nên không bao lâu đã có trên 50 người đứng ra làm lái khoai.
Tuy nhiên, gần đây thương lái địa phương
lỗ te tua. Đầu tháng 4-2012, khoai lang còn giá khoảng 600.000 đồng/tạ
đến giữa tháng 4 giá xuống 500.000 đồng/tạ và nay còn 220.000 - 300.000
đồng/tạ. Chưa hết, lái Trung Quốc còn quỵt tiền. Đồng cảnh ngộ trên, anh
Út, một thương lái ở xã Tân Thành, huyện Bình Tân chua chát: lợi dụng
nguyên liệu nhiều, thương lái Trung Quốc còn "thừa gió bẻ măng" chê
khoai bị da phèn, da cám, khoai lớn... để ép giá, thậm chí không mua. Và
thương lái địa phương phải "ôm sô", chịu lỗ hàng trăm triệu đồng.
![]() |
Ông Đào Văn Duy cho rằng, do quá nhiều
lái địa phương giành mối cung ứng khoai nên bị thương lái Trung Quốc lợi
dụng và dùng "chiêu" thiếu tiền gối đầu. Thậm chí họ thiếu liên tục
nhiều chuyến liền lên đến hàng tỷ đồng mà chưa chịu thanh toán. "Nếu
mình không cung ứng khoai thì có ngay lái địa phương khác giao hàng. Vì
sợ mất mối nên ai cũng làm liều bán thiếu"- ông Duy nói.
Trong tháng 4-2012, anh Duy giao 5 xe tải khoai lang hơn 390 tấn, trị giá 1,1 tỷ đồng nhưng mới lấy được 200 triệu đồng. Hơn 2 tuần nay thương lái Trung Quốc đã về nước, chỉ để lại lời hẹn... trả sau. Nhiều thương lái khoai ở Bình Tân, Bình Minh (Vĩnh Long) và các tỉnh khác cũng đang bị thương lái Trung Quốc nợ số tiền lớn chưa biết bao giờ đòi được...
Mù tịt về đối tác
Chuyện buôn bán khoai lang tiền tỷ giữa thương lái địa phương và thương lái Trung Quốc lâu nay hết sức đơn giản, không hề có hợp đồng hoặc ràng buộc điều kiện gì cả. Cụ thể khi mua khoai, thương lái Trung Quốc nhờ thông dịch viên điện thoại thương lái địa phương đặt số lượng, giá cả, ngày giao hàng. Do cả tin nhau nên không ai đặt tiền cọc. Vì thế khi gặp lúc giá giảm, tiêu thụ chậm... thương lái Trung Quốc tìm nhiều lý do làm khó và lái địa phương chịu thiệt hoàn toàn. Nhiều thương lái địa phương thừa nhận, dù làm ăn với nhau đã mấy năm nhưng không hề biết lai lịch gì về những thương lái Trung Quốc. Họ ở đâu, buôn bán ra sao, năng lực thế nào... đều mù tịt. Vì vậy, khi bị thương lái Trung Quốc quỵt hàng trăm triệu đến vài tỷ đồng, chỉ biết điện thoại năn nỉ và phập phồng chờ đợi chứ chẳng biết tìm họ nơi đâu.
Buôn bán khoai lang giữa lái địa phương và lái Trung Quốc bằng nói miệng không có hợp đồng nên dễ mất tiền
Mang chuyện buôn bán tiền tỷ kiểu "nói miệng" đặt lên bàn, ông Phạm Hữu Đức, Chủ tịch UBND xã Thuận An, huyện Bình Minh, nơi tập trung thương lái Trung Quốc, ông cho biết: "Hàng chục thương lái Trung Quốc sang đây theo dạng khách du lịch, họ đăng ký tạm trú và thuê lại kho vựa để thu mua khoai chở về Trung Quốc tiêu thụ. "Đến nay chưa có thương lái Trung Quốc nào trình báo là doanh nghiệp hay có công ty gì. Khả năng tài chính họ ra sao, làm ăn thế nào... chúng tôi cũng không biết".
Tại Cà Mau, nhiều chủ vựa cua đang khóc ròng vì bị thương lái Trung Quốc giựt nợ hàng chục tỷ đồng. Trao đổi với phóng viên Báo SGGP chiều 16- 5, ông Dương Tiến Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Cà Mau, cho biết tỉnh đã chỉ đạo ngành công an, quản lý thị trường... nắm tình hình và xử lý theo đúng pháp luật. Tuy nhiên cái khó là việc buôn bán giữa các chủ vựa cua với thương lái Trung Quốc không có hợp đồng nên khó xử lý.
Theo ông Dũng, thương lái Trung Quốc rất "manh", khi nhờ thương lái địa phương thu mua nguyên liệu, trả tiền... đều núp bóng phía sau nên không chịu trách nhiệm. Những thương lái Trung Quốc này không hề mở thư tín dụng L/C, hay tài khoản để thanh toán. Do đó khi xảy ra sự cố họ bỏ về nước và người địa phương lãnh đủ.
Theo UBND tỉnh Cà Mau, lâu nay việc buôn bán giữa thương lái địa phương và lái Trung Quốc diễn ra lặng lẽ, không ai đăng ký hay báo cáo ngành chức năng. Đến khi bị giựt nợ mới trình báo công an thì chuyện đã rồi!
(Theo SGGP)
Trong tháng 4-2012, anh Duy giao 5 xe tải khoai lang hơn 390 tấn, trị giá 1,1 tỷ đồng nhưng mới lấy được 200 triệu đồng. Hơn 2 tuần nay thương lái Trung Quốc đã về nước, chỉ để lại lời hẹn... trả sau. Nhiều thương lái khoai ở Bình Tân, Bình Minh (Vĩnh Long) và các tỉnh khác cũng đang bị thương lái Trung Quốc nợ số tiền lớn chưa biết bao giờ đòi được...
Mù tịt về đối tác
Chuyện buôn bán khoai lang tiền tỷ giữa thương lái địa phương và thương lái Trung Quốc lâu nay hết sức đơn giản, không hề có hợp đồng hoặc ràng buộc điều kiện gì cả. Cụ thể khi mua khoai, thương lái Trung Quốc nhờ thông dịch viên điện thoại thương lái địa phương đặt số lượng, giá cả, ngày giao hàng. Do cả tin nhau nên không ai đặt tiền cọc. Vì thế khi gặp lúc giá giảm, tiêu thụ chậm... thương lái Trung Quốc tìm nhiều lý do làm khó và lái địa phương chịu thiệt hoàn toàn. Nhiều thương lái địa phương thừa nhận, dù làm ăn với nhau đã mấy năm nhưng không hề biết lai lịch gì về những thương lái Trung Quốc. Họ ở đâu, buôn bán ra sao, năng lực thế nào... đều mù tịt. Vì vậy, khi bị thương lái Trung Quốc quỵt hàng trăm triệu đến vài tỷ đồng, chỉ biết điện thoại năn nỉ và phập phồng chờ đợi chứ chẳng biết tìm họ nơi đâu.
Buôn bán khoai lang giữa lái địa phương và lái Trung Quốc bằng nói miệng không có hợp đồng nên dễ mất tiền
Mang chuyện buôn bán tiền tỷ kiểu "nói miệng" đặt lên bàn, ông Phạm Hữu Đức, Chủ tịch UBND xã Thuận An, huyện Bình Minh, nơi tập trung thương lái Trung Quốc, ông cho biết: "Hàng chục thương lái Trung Quốc sang đây theo dạng khách du lịch, họ đăng ký tạm trú và thuê lại kho vựa để thu mua khoai chở về Trung Quốc tiêu thụ. "Đến nay chưa có thương lái Trung Quốc nào trình báo là doanh nghiệp hay có công ty gì. Khả năng tài chính họ ra sao, làm ăn thế nào... chúng tôi cũng không biết".
Tại Cà Mau, nhiều chủ vựa cua đang khóc ròng vì bị thương lái Trung Quốc giựt nợ hàng chục tỷ đồng. Trao đổi với phóng viên Báo SGGP chiều 16- 5, ông Dương Tiến Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Cà Mau, cho biết tỉnh đã chỉ đạo ngành công an, quản lý thị trường... nắm tình hình và xử lý theo đúng pháp luật. Tuy nhiên cái khó là việc buôn bán giữa các chủ vựa cua với thương lái Trung Quốc không có hợp đồng nên khó xử lý.
Theo ông Dũng, thương lái Trung Quốc rất "manh", khi nhờ thương lái địa phương thu mua nguyên liệu, trả tiền... đều núp bóng phía sau nên không chịu trách nhiệm. Những thương lái Trung Quốc này không hề mở thư tín dụng L/C, hay tài khoản để thanh toán. Do đó khi xảy ra sự cố họ bỏ về nước và người địa phương lãnh đủ.
Theo UBND tỉnh Cà Mau, lâu nay việc buôn bán giữa thương lái địa phương và lái Trung Quốc diễn ra lặng lẽ, không ai đăng ký hay báo cáo ngành chức năng. Đến khi bị giựt nợ mới trình báo công an thì chuyện đã rồi!
(Theo SGGP)
Tuesday, May 15, 2012
Doanh nghiệp gặp khó vì chưa hiểu thị trường Myanmar
Hiện nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang tìm cách khai thác thị trường
Myanmar, đặc biệt sau khi nước này có những động thái mở cửa kinh tế.
Tuy nhiên, đã có doanh nghiệp bị thiệt vì chưa hiểu rõ thị trường này.
Phát biểu tại hội thảo chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh tại thị trường
Myanmar do Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư (ITPC) và Sở Công
Thương TPHCM tổ chức chiều 14-5, ông Đàm Trung Bắc, Tổng lãnh sự danh dự
Cộng hòa liên bang Myanmar tại TPHCM, cho biết dù Chính phủ Myanmar
đang tiến hành các cải cách, nhưng đến thời điểm này vẫn có những khó
khăn của thị trường này chưa được xóa bỏ. Chẳng hạn như, theo ông Bắc, có doanh nghiệp nhập khẩu nước giải khát từ Myanmar, với giá FOB là 78 kyat/lít nhưng phía Myanmar lại yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam chịu giấy phép xuất khẩu. Ngoài ra, doanh nghiệp Myanmar chỉ vận chuyển hàng hóa ra trước kho của họ, nên doanh nghiệp Việt Nam phải chịu toàn bộ chi phí vận chuyển khác, như bốc dỡ,… Ông Bắc cho rằng, doanh nghiệp sẽ thua nếu chưa có kinh nghiệm với chuyện này, do đó phải hỏi rõ đối tác cụ thể về giá FOB “phát sinh”. Ngoài ra, theo ông Nguyễn Văn Thanh, Chủ tịch công ty Viettranimex Group, vì ngân hàng Myanmar vẫn bị Mỹ cấm vận, nên việc gửi tiền trực tiếp vào ngân hàng Myanmar dễ gặp rủi ro. Ông Thanh cho biết, vừa rồi có một doanh nghiệp gỗ Việt Nam bị treo 300.000 đô la Mỹ vì không biết việc này. Do đó, việc thanh toán qua ngân hàng Singapore, theo ông Thanh, là chắc ăn hơn. Ông Thanh đang thực hiện nhiều dự án về nông nghiệp, thủy sản,… tại Myanmar, và đã kinh doanh với thị trường này hơn 10 năm. Đến nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có sản phẩm xuất hiện tại Myanmar cách đây hơn chục năm. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp vẫn chỉ làm ăn theo hình thức mua đứt bán đoạn, phụ thuộc vào một đầu mối doanh nghiệp Myanmar hoặc qua trung gian chứ chưa thâm nhập sâu vào thị trường này. Một đại diện của một hãng mỹ phẩm có tiếng của Việt Nam cho biết đã làm ăn với thị trường Myanmar được 10 năm, chủ yếu bán cho một doanh nghiệp Myanmar phân phối lại cho thị trường này. Tuy nhiên, việc buôn bán này cũng chỉ theo hình thức mua đứt bán đoạn. Do đó, khi thấy doanh nghiệp Myanmar phân phối lại với giá gấp bốn lần giá mua với lý do chịu nhiều chi phí, thì phía công ty mỹ phẩm lo ngại việc này sẽ khiến hàng hóa của công ty bị giảm tính cạnh tranh tại thị trường Myanmar. Tuy nhiên, công ty mỹ phẩm của Việt Nam chịu cảnh “đối tác nói sao thì nghe vậy” vì không biết rõ chi phí thực tế mà doanh nghiệp Myanmar chịu là bao nhiêu. Theo ông Thanh từ Viettranimex, để nhập khẩu, doanh nghiệp Myanmar phải chịu một số khoản chi, gồm chi chí mua ngoại tệ (tỷ giá chính thức của đô la Mỹ/đồng kyat Myanmar chênh lệch khá lớn với tỷ giá chợ đen), chạy quota (Myanmar quy định doanh nghiệp xuất bao nhiêu thì được nhập bấy nhiêu), phí bôi trơn,… Do đó, việc hàng hóa bị đội giá là có thật. Đối với việc nhập khẩu hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam mua gỗ của Myanmar, nhưng chủ yếu qua các trung gian của Indonesia, Malaysia,… Do đó, theo một số người có kinh nghiệm làm ăn với thị trường Myanmar, doanh nghiệp Việt Nam nên có văn phòng đại diện và liên kết với doanh nghiệp Myanmar để dễ dàng hơn trong các khâu thủ tục, xin giấy phép,…
| |
TBKTSG
Khoảng 50 nghìn doanh nghiệp có thể 'chết' trong năm 2012
Dự báo không mấy lạc quan về hoạt động của doanh nghiệp trong nước vẫn tiếp tục được đưa ra.
Theo đó, trong 4 tháng đầu năm 2012, cả nước có khoảng 24 nghìn doanh
nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký trên 130 nghìn tỷ đồng,
giảm 10,5% về số lượng và 14,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ 2011.
Cũng trong 4 tháng, có trên 17,7 nghìn doanh nghiệp làm các thủ tục giải thể và ngừng hoạt động, tăng 9,5% so với cùng kỳ.
Như vậy, tính đến 30-4, trong tổng số hơn 647,6 nghìn doanh nghiệp đã
thành lập, cả nước còn khoảng 463,8 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động,
chiếm 71,6%, có trên 81,9 nghìn doanh nghiệp đã giải thể, trên 16 nghìn
doanh nghiệp đã đăng ký dừng hoạt động và trên 85,8 nghìn doanh nghiệp
dừng hoạt động nhưng không đăng ký.
Với riêng con
số doanh nghiệp giải thể ở 4 tháng đầu năm nay, Chính phủ phân tích
rằng, có nhiều doanh nghiệp năng lực tài chính yếu, sản phẩm kém khả
năng cạnh tranh cần phải được cơ cấu lại.
Còn gần
30% doanh nghiệp đã "chết", báo cáo của Chính phủ cho rằng đây là tỷ lệ
có thể chấp nhận được. Con số so sánh được đưa ra là tại Anh, tỷ lệ
doanh nghiệp tồn tại sau 3 – 5 năm là 70%, còn tại Mỹ tỷ lệ này sau 5
năm hoạt động là dưới 50%.
Bên cạnh các doanh
nghiệp cần phải cơ cấu lại, việc bổ sung một lực lượng mới doanh nghiệp
đang tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới được nhìn nhận sẽ là nâng cao
hiệu quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Sức khỏe của các doanh nghiệp cũng là vấn đề được đề cập ở hầu hết các
phát biểu tại phiên họp, đi kèm với băn khoăn về mức độ chính xác của
các con số tại báo cáo.
Thứ trưởng Cao Viết Sinh
khẳng định con số 183 nghìn doanh nghiệp giải thể, dừng hoạt động từ
trước đến nay là kết quả điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Riêng 2011 là hơn 53 nghìn và 4 tháng đầu năm nay là 17,7 nghìn, hai
con số này cộng lại chiếm hơn 40% tổng số doanh nghiệp giải thể và ngừng
hoạt động từ trước đến nay, điều đó nói lên mức độ khó khăn của doanh
nghiệp, ông nhấn mạnh.
"Nếu cứ đà này trung bình
một tháng sẽ có từ 4 đến 4,5 nghìn doanh nghiệp giải thể, thì chắc chắn
năm nay con số sẽ xấp xỉ năm ngoái, dự báo khoảng 50 nghìn doanh nghiệp
sẽ giải thể, ngừng hoạt động", ông Sinh ước tính.
Theo Nguyên Thảo
VnEconomy
Monday, May 7, 2012
Ba quy tắc khởi nghiệp của người đồng sáng lập nên PayPal
... Người đồng sáng lập nên công cụ thanh toán và chuyển tiền trực
tuyến PayPal và quỹ đầu tư mạo hiểm giờ đây lại bén duyên với vai trò
mới: giáo sư đại học. Dưới đây là một số kiến thức bổ ích mà ông chia sẻ
với sinh viên của mình tại trường Đại học danh tiếng Stanford
Peter
Thiel là một người hoàn hảo, ông được biết đến không chỉ với vai trò là
người đồng sáng lập PayPal và một quỹ đầu tư mạo hiểm thành công, mà
còn là một người không ngại đề xuất những ý tưởng táo bạo và biến chúng
thành hành động. Nhưng bây giờ ông có thể bổ sung thêm một mục nữa hồ sơ
xin việc của mình: giáo sư đại học.
Nhà quản
lý tài năng này đang phụ trách một lớp trong học kỳ này tại trường Đại
học Standford (bất chấp việc ông có thể khuyến khích cá doanh nhân tương
lại bỏ học giữa chừng) và thật may mắn cho những người không thể có
được một chỗ ngồi trong khóa học đã được sinh viên đăng ký hết chỗ này
là một sinh viên tốt bụng đã đưa toàn bộ bài giảng của ông thầy đặc biệt
này lên mạng. ...
Đọc đầy đủ: http://biz.cafef.vn/20120507054452669CA57/ba-quy-tac-khoi-nghiep-cua-nguoi-dong-sang-lap-nen-paypal.chn
Think You Deserve To Be Called a CEO?
Congratulations. You’re the CEO of a startup. You’re doing the hardest job in business. You’ve raised money from venture capitalists and turned down better-paying jobs elsewhere. You’ve mastered complicated things such as capitalization tables and common things, such as payroll. You’ve fought with competitors, coworkers, friends and even yourself without losing your way or your wits. You’ve inspired others to work beside you each day to make your dream a reality. I salute you.
Now, everybody else calling himself or herself a CEO—listen up, this is for you: stop it. Just stop calling yourself a CEO.
Stop putting “CEO” on the business cards you printed last week at Moo.com for YourLastName Consulting LLC. Take it off your LinkedIn page. Remove it from the résumé you’re passing around in hopes of getting hired. Self-titling as CEO is an atonal homage to structurally mandated social hierarchies, not a statement of your iconoclastic self-determination.
Maybe it’s generational. Steve Jobs’ early business card read: “Vice President, New Product Development,” in part because he recognized he didn’t have the skills to run the company he wanted to build. At least not yet. Bill Gates went with the classic and somewhat understated “President.” But today’s tech titans have opted for something much more conspicuous. If you were one of the folks to get an early Mark Zuckerberg card, you may remember the supercilious line: “I’m CEO, Bitch.” Way to stay classy, Zuck.
Facebook aside, title inflation is bad for business. Calling yourself the CEO will label you as either an egoist or someone with confidence compensation issues. That will make people less willing to work with you or help you. Taking the top title in a company also suggests a limited vision of what your company can become. Ask yourself: would you still be CEO if it were a $100 billion business or would you require what’s euphemistically called “adult supervision?”
So stop pretending to have attained a title you didn’t earn and start doing what you need to do to get to where you want to be. Here’s how:
Attract Awesome People
Jobs had Wozniak and later, Markkula. Clark had Andreessen. McNeally had Bechtolsheim, Joy and Khosla. A remarkable CEO should be like the moon, illuminated by the reflected light of all the stars he or she has brought into orbit. Awesome people act as accelerants to whatever you’re doing. They push ideas forward, execute with aplomb and challenge you to new heights.
If you can hire, hire. If you can’t hire, bring them into your orbit as advisors, friends and fellow travelers. Get them to invest their creativity and energy.
To get the true benefits of awesome people, focus on diversity. You want to have as many different perspectives on a problem as you possibly can, so bring on the best people from as wide array of backgrounds and from different generations. They’ll learn from each other and the confluence of their experiences will be the basis of company creativity for years to come.
Most importantly, attracting awesome people to your company precludes retreat. You carry too valuable a cargo of energy and confidence invested by others to turn back.
Build an Experience, Not a Product
Eric Ries has put the concept of the minimally viable product (MVP) front and center in the minds of Silicon Valley startups. But this focus is somewhat misguided. Products give you utility and then may be discarded. Products are the one-night stands of business. Experiences give you memories and good experiences will bring you back for more, it engenders a long-term relationship. The best CEOs know this instinctively and do all that they can to create and cultivate an attractive experience for their customers.
Once you’ve got a good experience, cement it with the bond of buying. A funny thing happens when people buy your product: they invest their energy into the choice and will find reasons to justify their action. In the early days of Apple, customers loved their computers because they had to pay a boatload of money for them. They found aspects of the experience they could rave about just to justify their purchase to others.
That price tag is valuable to you too. It focuses the mind tremendously and forces you to deliver a unique and memorable experience of real value. When you offer a product for free, you aren’t forced to justify your existence to customers or show a useful benefit. That’s why we see half a dozen Instagram clones.
A CEO doesn’t market a product to users. A CEO sells an experience to customers.
Learn Finance
If you wanted to be a rock star, you’d have to learn to read music and if you wanted to be an award-winning novelist, you’d have to learn basic grammar. It should not come as a surprise that if you want to be the CEO of a business you should learn finance. Yet we regularly see founders blowing off finance or outsourcing major financial decisions to hired guns.
There’s no secret to learning finance. There are plenty of good books that can take you through the basics of accounting up to the execution of liquidity preferences under preferred stock agreements. Interview friends that have run their own companies, worked in banking or had P&L experience for a division in a larger company. Start using QuickBooks. Today it’s easy to find help online from corporate finance communities such as Proformative.
For startups, there’s one important financial metric that matters more than any other: months left to live given your current burn rate. Real CEOs know this number and manage it religiously.
Define a Big Goal and Take Small Steps
Plenty of wannabe Silicon Valley CEOs have read Jim Collins and will tell you about their BHAG (That’s their Big, Hairy, Audacious Goal). They’ll tell you that they want to revolutionize the datacenter, or change the face of mobile payments, or create a new paradigm for social sharing, or something equally nebulous. That’s great. But it’s the ability to both set that goal and show how you’re going to achieve it that marks a real CEO.
Successful CEOs balance aspirations with operations. They focus on things that can be done today to secure customers and growth over time—not on the title they put on their business cards.
Source: http://techcrunch.com/2012/05/06/think-you-deserve-to-be-called-a-ceo/
Doanh nghiệp đã và đang phá sản như thế nào?
Cuộc
điều tra thu thập thông tin phản ánh về điều kiện sản xuất, những khó
khăn, trở ngại về các yếu tố liên quan tới sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm của khu vực doanh nghiệp.
Sau gần một tháng triển khai,
tính đến 29.4.2012, cơ quan điều tra đã thu được 8.373 phiếu gồm 319
doanh nghiệp nhà nước, 7.343 doanh nghiệp ngoài nhà nước và 711 doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Kết quả của 8.373 doanh nghiệp
cho thấy, sau một năm và 3 tháng vừa qua, số doanh nghiệp thực tế còn
hoạt động chiếm 91,6%; số doanh nghiệp phá sản, giải thể và doanh
nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh, đang hoàn thành thủ tục phá sản, giải
thể chiếm 8,4%.
Trong ba loại hình doanh nghiệp,
doanh nghiệp ngoài nhà nước phá sản, giải thể chiếm tỷ lệ cao nhất với
9,2%; tiếp đến là khu vực doanh nghiệp nhà nước với 2,7% và thấp nhất
là khu vực doanh nghiệp có vốn FDI với 2,6%.
Tính theo địa phương, đồng bằng
sông Cửu Long là vùng có tỷ lệ doanh nghiệp phá sản, giải thể cao nhất
cả nước với 13,6%; tiếp đến là khu vực Tây Nguyên với 9,9%; Đông Nam Bộ
8,8%; Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 8,2%; trung du và miền núi
phía Bắc 7,2% và thấp nhất là vùng đồng bằng sông Hồng 6%.
Nhiều công ty trong lĩnh vực chế biến, xuất nhập khẩu nông sản đã gặp rất nhiều khó khăn ngay từ đầu năm 2011 (ảnh minh hoạ)
Trong tổng số 706 doanh nghiệp
(8,4%) phá sản, giải thể thuộc diện điều tra có đến 69,4% doanh nghiệp
phản ánh nguyên nhân phá sản, giải thể là do sản xuất kinhh doanh thu
lỗ; 28,4% doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất kinhh doanh; 15,1% doanh
nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm; 11,7% doanh nghiệp khó khăn về địa
điểm sản xuất kinhh doanh; 4,4% doanh nghiệp phải đóng cửa để thành
lập doanh nghiệp mới, chuyển đổi ngành nghề sản xuất và 4,7% doanh
nghiệp đóng cửa để sáp nhập với doanh nghiệp khác.
Trong số các doanh nghiệp bị phá
sản, giải thể có đến 89,7% doanh nghiệp phản ánh họ sẽ không tiếp tục
thành lập doanh nghiệp mới; 10,3% doanh nghiệp dự kiến sẽ tiếp tục
thành lập doanh nghiệp mới.
Trong số doanh nghiệp phá sản,
giải thể sẽ thành lập mới thì có 35,5% trả lời sẽ thành lập mới ngay
trong năm 2012; 25,8% sẽ thành lập mới trong năm 2013; 16,2% sẽ thành
lập mới trong năm 2014 và 22,5% sẽ thành lập mới sau năm 2014.
Thông tin về cuộc điều tra, tổng
cục Thống kê cho hay, cuộc điều tra được thực hiện ngẫu nhiên, phân bổ
đều theo quy mô lao động, đại diện cho toàn quốc, cho các ngành kinh tế
(nông, lâm và thủy sản; xây dựng, bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô
tôt, xe máy và xe có động cơ khác; vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trú và
ăn uống; thông tin và truyền thông) và cho 3 loại hình sở hữu của doanh
nghiệp.
Đối tượng điều tra bao gồm 10.120
doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu, trong đó có 319 doanh nghiệp
nhà nước (chiếm 9,5% trong tổng số doanh nghiệp Nhà nước); 9.048 doanh
nghiệp ngoài nhà nước (chiếm 3% trong tổng số doanh nghiệp ngoài Nhà
nước) và 753 doanh nghiệp có vốn FDI (chiếm 9,5% trong tổng số doanh
nghiệp FDI). Tuy nhiên, tính đến 29.4.2012, cơ quan điều tra chỉ mới
thu được 8.373 phiếu.
Theo vef.vn/
Friday, May 4, 2012
Bán thương hiệu cho nước ngoài: những bài học đắt giá
(VEF.VN) - Được các DN dày công xây dựng, những
thương hiệu như Dạ Lan (kem đánh răng), Viettronic (điện tử) đã trở
thành niềm tự hào chung của người Việt Nam những năm cuối thể kỷ 20.
Nhưng đến nay tất cả chỉ còn là sự nuối tiếc, không biết "bao giờ cho
đến ngày xưa"?
Dạ Lan thời oanh liệt nay còn đâu?
Vào đầu những năm 1990, thương hiệu kem đánh răng Dạ lan của Công ty Hoá mỹ phẩm Sơn Hải do ông Trịnh Thành Nhơn gây dựng đã trở nên nổi tiến khắp cả nước và được nhiều người tiêu dùng sử dụng.
Sản phẩm kem đánh răng Dạ Lan ra đời vào năm 1988 là kết quả hợp tác giữa Cơ sở sản xuất Sơn Hải (tiền thân của Công ty Hoá mỹ phẩm Sơn Hải) và kỹ sư Lưu Trung Nghĩa (Phó giám đốc kỹ thuật Công ty Kem đánh răng P/S, khi còn là một DN quốc doanh), một trong những chuyên gia hàng đầu trong ngành sản xuất kem đánh răng Việt Nam lúc đó.
Cũng giống như nhiều sản phẩm khác, kem đánh răng Dạ Lan khi mới ra đời tiêu thụ rất khó khăn, khi đó Công ty Hoá mỹ phẩm Sơn Hải đã phải áp dụng hình thức khuyến mãi "ấn tượng mạnh" với người tiêu dùng là mua kem đánh răng trúng tivi để gây sự chú ý. Khách hàng nào mua sản phẩm mà trong đó có hai số 9 thì trúng 1 hộp kem, 3 số 9 trúng 500.000 đồng, 4 số 9 trúng tivi. Với hình thức khuyến mãi này, Dạ Lan đã chinh phục được đa số khách hàng tại miền Trung và miền Bắc. Rồi hình thức khuyến mãi được đổi thành mua kem đánh răng được tặng một bàn chải, tăng hộp kem nhỏ...
Dạ Lan thời oanh liệt nay còn đâu?
Vào đầu những năm 1990, thương hiệu kem đánh răng Dạ lan của Công ty Hoá mỹ phẩm Sơn Hải do ông Trịnh Thành Nhơn gây dựng đã trở nên nổi tiến khắp cả nước và được nhiều người tiêu dùng sử dụng.
Sản phẩm kem đánh răng Dạ Lan ra đời vào năm 1988 là kết quả hợp tác giữa Cơ sở sản xuất Sơn Hải (tiền thân của Công ty Hoá mỹ phẩm Sơn Hải) và kỹ sư Lưu Trung Nghĩa (Phó giám đốc kỹ thuật Công ty Kem đánh răng P/S, khi còn là một DN quốc doanh), một trong những chuyên gia hàng đầu trong ngành sản xuất kem đánh răng Việt Nam lúc đó.
Cũng giống như nhiều sản phẩm khác, kem đánh răng Dạ Lan khi mới ra đời tiêu thụ rất khó khăn, khi đó Công ty Hoá mỹ phẩm Sơn Hải đã phải áp dụng hình thức khuyến mãi "ấn tượng mạnh" với người tiêu dùng là mua kem đánh răng trúng tivi để gây sự chú ý. Khách hàng nào mua sản phẩm mà trong đó có hai số 9 thì trúng 1 hộp kem, 3 số 9 trúng 500.000 đồng, 4 số 9 trúng tivi. Với hình thức khuyến mãi này, Dạ Lan đã chinh phục được đa số khách hàng tại miền Trung và miền Bắc. Rồi hình thức khuyến mãi được đổi thành mua kem đánh răng được tặng một bàn chải, tăng hộp kem nhỏ...
Cùng với chất lượng ngày càng được nâng cao, giá cả hợp túi tiền đa số người tiêu dùng, sản phẩm kem đánh răng Dạ Lan với hình ảnh một cụ già đẹp lão khoe hàm răng trắng trên bào bì ngày càng ăn sâu trong trí nhớ của mọi người.
Nhớ lại cách làm thương hiệu ngày xưa, ông Nhơn cho biết, nói về kem đánh răng hồi đó, ở Sài Gòn có Như Ngọc, Rạng Đông là hai nhà máy của tư nhân; quốc doanh có P/S; ở Hà Nội có Ngọc Lan nhưng bán yếu. Sau khi Dạ Lan ra đời thì kem Như Ngọc và Rado cạnh tranh không lại. Lúc đó, kem đánh răng Trung Quốc tràn lan, nhưng Dạ Lan đã đánh bật kem đánh răng Trung Quốc ra khỏi thị trường, không những thế còn bán được sang cả Trung Quốc.
Trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 1995, kem đánh răng Dạ Lan nổi lên như một thương hiệu mạnh của người Việt Nam, chiếm tới 30% thị phần kem đánh răng cả nước. Tuy nhiên từ thương hiệu chiếm 30% thị phần kem đánh răng toàn quốc, Dạ Lan đã biến mất sau gần 10 năm tồn tại.
Bước ngoặt bắt đầu từ năm 1995, khi đó, một trong những tên tuổi sừng sỏ đó là tập đoàn Colgate (Mỹ), muốn thâm nhập thị trường hoá mỹ phẩm Việt Nam. Chiến lược mà Colgate đưa ra để nhanh chóng sở hữu Dạ lan đó là đàm phán liên doanh với Công ty hóa mỹ phẩm Sơn Hải. Colgate đã thành công khi mua lại thương hiệu Dạ Lan với giá rẻ là 3 triệu USD, trong khi đó định giá thương hiệu này lên đến trên 20 triệu USD.
Hợp tác với Colgate, ông chủ Dạ Lan hy vọng với công nghệ và chiến lược kinh doanh của tập đoàn hoá mỹ phẩm hàng đầu thế giới sẽ giúp cho sản phẩm và thương hiệu tăng thêm giá trị vươn lên tầm cao mới. Nhưng điều đó đã không xảy ra.
Colagate chọn mua Dạ Lan thời điểm đó bởi vì theo quy định, các DN nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chưa được phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài mà phải liên doanh.
Colgate chọn Dạ Lan bởi thương hiệu này đang chiếm 30% thị phần kem đánh răng cả nước. Việc bỏ ra 3 triệu USD nhưng lại có cơ hội sở hữu 30% thị phần kem đánh răng thực sự là 1 món hời. Thương vụ này giúp họ sở hữu dây chuyền sản xuất, con người, hệ thống phân phối sẵn có... Còn nếu mua một thương hiệu khác, Colgate sẽ phải đối đầu trực tiếp với Dạ Lan, một trong hai đối thủ nặng ký trên thị trường kem đánh răng Việt Nam lúc bấy giờ.
Thế là chỉ sau vài năm liên doanh, không biết do chủ ý hay vô tình. Dạ Lan liên tục thua lỗ trước khi bị bán hoàn toàn cho Colgate năm 1998, liên doanh Colgate - Sơn Hải tan rã. Sau đó, tập đoàn này bỏ hẳn tên Dạ Lan, đầu tư vào Colgate nhằm chiếm lĩnh thị trường kem đánh răng Việt Nam. Thương hiệu Dạ Lan cũng biến mất trên thị trường từ đó.
Với 3 triệu USD mua lại Dạ Lan và Sơn Hải, đến nay Colgate đã trở thành 1 thương hiệu mạnh trên thị trường hoá mỹ phẩm Việt Nam. Còn ông chủ Dạ Lan nhận 3 triệu USD thì Dạ Lan trở nên lụi tàn. Ông Nhơn sau đó đã từng thừa nhận ngay cả thời điểm kem đánh răng Dạ Lan đang phát triển rất tốt, ông cũng chưa ý thức được thương hiệu và giá trị của nó là gì. Ông Nhơn chỉ hiểu được điều này sau khi bán cho Colgate, nhưng tất cả đã quá muộn.
Năm 2001, ông Nhơn thành lập Công ty Hóa mỹ phẩm Quốc tế (ICC) và đến tháng 10/2009, lại đưa sản phẩm kem đánh răng mang thương hiệu Dạ Lan quay trở lại thị trường.
Tuy kem đánh răng Dạ lan đã quay trở lại, có mặt cả trong các siêu thị lớn như Big C nhưng tiêu thụ hiện vẫn đang gặp khó khăn giống y như thời kỳ 1988 nó mới ra đời. Lý do hiện nay trên thị trường đã có quá nhiều thương hiệu lớn đang chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường với các chương trình khuyến mãi, quảng cáo rầm rộ diễn ra thường xuyên.
Có lẽ đến bây giờ, ông chủ thương hiệu Dạ lan mới nhận ra 1 điều quan trọng, để chiếm thêm 1% thị phần thì cần phải tốn hàng triệu USD cho chi phí tiếp thị, và trước các thương hiệu mạnh thì Dạ Lan quá nhỏ bé.
Viettronic chỉ còn lại hư danh
Khởi đầu vào những năm 1990 từ Công ty điện tử Đống Đa thương hiệu Viettronic khi đó khá nổi tiếng với các sản phẩm lắp ráp như Radio Cassette, tivi đen trắng 14 inch... Các sản phẩm khi đó sử dụng linh kiện của hãng Panasonic Nhật Bản nhưng mang thương hiệu Viettronic đã tạo ra ấn tượng tốt với người tiêu dùng Việt Nam thời đó vốn rất khao khát được sở hữu những sản phẩm điện tử.
Ông Thái Thanh Long, Nguyên Phó tổng giám đốc Công ty điện tử Đống Đa nhớ lại, khi đó nhận thấy nhu cầu về các sản phẩm điện tử tăng mạnh, trong khi trong nước không có, chúng tôi đã quyết định đàm phán với Panasonic nhập linh kiện về lắp ráp. Có 2 cách là nhập linh kiện về lắp ráp sau đó mang thương hiệu chính hãng Panasonic hoặc dùng thương hiệu của chính mình, chúng tôi đã quyết định chọn việc sử dụng thương hiệu của chính mình với thương hiệu Viettronic cho các sản phẩm lắp ráp.
Với chất lượng tốt, trong khi các thương hiệu điện tử nổi tiếng của Nhật bản chưa vào Việt Nam, đó là 1 lợi thế giúp cho sản phẩm bán rất tốt. Khi đó nhiều cở sở điện tử ở các địa phương cũng nhập linh kiện điện tử về lắp rap, nhưng không bán được phải xin gắn thương hiệu Viettronic.
Thương hiệu Viettronic ngày càng nổi tiếng, 1 loạt các DN thuộc Tổng công ty Điện tử tin học Việt Nam như Tân Bình, Thủ Đức, Biên Hoà, Bình Hoà... cũng lấy làm thương hiệu cho các sản phẩm của mình và đều phát triển tốt.
Tuy nhiên, sau đó, các DN điện tử nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam mà chủ yếu là lắp ráp, hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu và thôn tính thị trường. Viettronic Tân Bình thì liên doanh với Sony, Viettronic Thủ Đức liên doanh với Panasonic, Toshiba... Các liên doanh nhanh chóng phát triển thương hiệu ngoại và đầu tư không đáng kể cho thương hiệu nội Viettronic. Thị trường điện tử Việt Nam nhanh chóng rơi vào tay các DN nước ngoài.
Bên cạnh đó họ nâng giá linh kiện bán cho Viettronic, khiến cho Viettronic không thể tiếp tục lắp ráp bởi chi phí quá cao không thể cạnh tranh được. Chính vì vậy Viettronic dần dần vắng bóng, sau đó phải chuyển sang lắp ráp tivi CRT, đầu DVD, bằng linh kiện nhập từ Trung Quốc và đưa về các vùng nông thôn, nhường toàn bộ thị phần khu vực thành thị cho các thương hiệu nước ngoài. Đến nay thì ngay tại nông thôn, thương hiệu Viettronic cũng chẳng còn. Các DN điện tử như Tâm Bình, Thủ Đức, Đống Đa vẫn mang thương hiệu Viettronic nhưng gần như không có sản phẩm hoàn chỉnh nào.
Việc mở cửa cho đầu tư ồ ạt mà không có cam kết phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng nội địa hoá. Thậm chí như Sony còn không đầu tư gì mà thuê lại ngay dây chuyền lắp ráp tivi của Viettronic Tân Bình để nhập linh kiện về lắp ráp, sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì họ rút lui khi đã xây dựng xong hệ thống phân phối, bảo hành bảo dưỡng trên toàn quốc để đưa sản phẩm từ nước ngoài vào bán.
Điều đó đã khiến cho 1 thương hiệu mạnh đang phát triển bị tiêu diệt và cũng làm cho ngành điện tử Việt Nam mất cơ hội. Đến nay ngành CN điện tử Việt Nam cứ lẹt đẹt mãi, còn các DN thì phải từ bỏ những mặt hàng truyền thống để chuyển sang kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ khác. Viettronic Tân Bình, Đống Đa nay đi kinh doanh địa ốc, Viettronic Thủ Đức thì đã phải làm đại lý bán sim điện thoại để kiếm sống.
Thật tiếc cho những thương hiệu nổi tiếng 1 thời do các DN Việt Nam dày công xây dựng nhưng chẳng thể tồn tại được lâu.
Subscribe to:
Comments (Atom)
